Trà Phong
Vĩnh Trường
I Thuật Uống Trà:
Trong lối xả giao ngày xưa, dân ta thường dùng lá trầu để bắt đầu cho câu chuyện giao duyên, làm ăn, buôn bán.” Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Ngày nay các gia đình Việt Nam thường dùng trà để tiếp đải nhau trong mọi giao dịch thường ngày. Ðâu đâu cũng dùng trà, bất cứ dịp nào cũng dùng trà nên có nhiều câu ca dao hay thành ngữ để nói lên tính chất phổ thông của trà như “trà dư tửu hậu “để diển tả những mẩu chuyện xả giao hay tán gẩu lan man bất tận. sau khi tiệc tàn, ” Rượu ngâm nga, trà liền tay” rượu uống phải từ từ nhâm nhi chứ trà thì phải uống nóng, uống ngay kẻo nguội mất hết hương vị.” Trà tam rượu tứ “uống trà tối đa là ba người thôi còn uống rượu thi tối thiểu phải bốn người. Trong thời kháng Pháp trước năm 1954, trong vùng bưng-biền thường có một tiếng lóng ” U.T.Q.” đọc là ” u tê cu ” để thay cho danh từ uống trà, có thể hiểu là uống trà quạo, hoặc uống trà quế có vẻ như để chế diểu lối sống thong dong nhàn nhả trưởng giả cuả các cụ nhà ta nên họ nháy theo một bài ca kháng chiến dạy cho trẻ con hát : “Ông tướng, ông thần ngồi chần ngần ở trong cái miểu. U.T.Q. thấy con ông từ, xách cái ky đi vô. Ông thì la sướng ông thì la khoái! Nhảy xuống !!!”
Trà hiện nay đã trở thành thức uống thông dụng của nhiều dân tộc trên thế giới. Người Anh, Nga, Pháp, Mỹ, Hoà Lan đều say mê trà,mỗi dân tộc mỗi kiểu cách. Họ thường dùng loại trà mạn, lá to và dầy, khi pha nước có màu hổ phách vị ngọt chứ không chát. Khi uống trà họ còn thêm lát chanh, tí đường hoặc vài cục nước đá lạnh tuỳ ý thích mổi người. Ðối với các sắc dân Á-Châu như Trung Hoa, Nhật, Ðại-Hàn, Việt-Nam thì uống trà được nâng lên thành một nghệ thuật thưởng thức , phảng phất màu sắc thi-vị và tôn giáo.
Người miền Bắc Việt-Nam gọi trà là chè, đa số bình dân dùng lá chè tươi để nấu nước uống như chè nụ vối, chè thanh nhiệt, mục đích cho đã cơn khát thôi chứ không nhằm thưởng thức. Những bác nông dân, sáng sớm tinh sương, gọi nhau ơi ới , mời nhau bát chè đặc quánh, hút điếu thuốc lào, ăn củ khoai luộc rồi mới ra đồng làm việc. Dọc đường cái quan, bên cạnh phiên chợ hay tại bến đò, dưới những túp lều quán đơn sơ, nổi bật hình ảnh những bà mẹ Việt-Nam đầu chít khăn mỏ quạ, miệng nhai trầu bỏm bẻm bên nồi nước chè bốc khói, với vài lọ kẹo gừng, kẹo đậu phọng, kẹo mè đen, thuốc lào, thuốc rê, vài ba loại trái cóc, chuối, ổi. Ðó là tất cả gia tài của mẹ. Những buổi trưa hè nóng bức, khách bộ hành dừng chân tại quán cốc bên đường dưới tàng cây im mát mà xơi một bát nước chè xanh nóng hổi thì không có gì đả cho bằng.
Giới sành điệu thượng lưu trí thức dùng trà tàu hay trà khô được sao, ướp, pha chế cẩn thận để khi uống, trà sẽ toả ngát hương thơm, vị trà ngọt dịu tận cổ họng chứ không chát đắng và người thưởng thức có cảm giác sảng-khoái , tỉnh táo, sáng suốt.
II Các Loại danh trà:
Về phương diện ăn chơi của các bật “phong lưu giang hồ khí cố” “ngày xưa, trà được đưa lên hàng đầu, bởi vậy cụ Nguyển Công Trứ nhà ta than:
“Một trà, một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó khuấy ta. Bỏ được thứ nào hay thứ ấy”
Than thì than vậy chứ có chừa được đâu, chẳng những thế mà bốn cái hư hỏng của con người được gọi là “tứ đổ tường” thì trà cộng với rươu cũng là thành phần tiên phong trước hết..vì
“Say sưa nghĩ cũng hư đời.
Hư thì hư vậy, say thì cứ say.
Ðất say đất cũng lăn quay.
Trời say trời cũng đỏ gay ai cười”
Do đó nơi đâu có phố có chợ, có con người tựu hội lại đông đảo thì các tiệm trà tiệm rượu đều được chiếu cố kỷ lưởng. Ở Trà-Vinh mình phố xá đâu bao lớn mà đếm ra hằng chục tiệm trà, tiệm nào tiệm nấy cũng to lớn “ăn nên làm ra” như Cẩm Ký, Văn Huê, Phong Huê, Tài-Ký,Vĩnh Phát, Hiệp Phong, Minh Lợi, Tân Lợi, Minh Phát..
Trà có sức hấp dẩn như vậy nên từ vua chúa cho đến hàng dân giả, ai ai cũng đều ưa thích. Giai cấp bình dân phương tiện eo hẹp, có thứ gì thì dùng thứ ấy, các giới chức thẩm quyền chừng nào thì hay ưa bày ra đủ kiểu, lắm cách cầu-kỳ để thưởng thức các món ngon vật lạ vì vậy sinh ra rất nhiều huyền thoại. Huyền thoại về trà rất nhiều, trong bài nầy chỉ kể ra một vài loại trà tiêu biểu thôi.
Trảm Mả Trà: Các loài trâu, bò, ngựa khi ăn cỏ đưa vào bao tử cho mau đầy bụng, buổi tối về ợ trở ra nhơi lại. Lợi dụng đặc tính nầy, các nhà quyền quý vua chuá ngày xưa , sáng sớm thả ngưạ vào vườn trà, cho ngựa ăn các lá trà non đầy bao tử, xong họ đem con ngựa đó giết đi bằng cách chém đầu ( trảm mả) rồi mổ bụng con ngựa lấy xác trà ra đem phơi khô ướp làm trà (cũng tương tự như cà-phê cứt chồn, họ cho con chồn Hương leo lên cây ăn các trái cà-phê chín tới sau đó họ lấy phân của con chồn pha trộn với cà phê xay nhuyển gọi là cà phê cứt chồn. hương vị thật độc đáo).
Thanh Nử Trà: Loại trà nầy được ướp bằng mồ hôi cuả các cô gái còn trinh nguyên. Sáng sớm tinh sương, hàng đoàn các cô gái dưới 13 tuổi, mặc áo thun rộng, trôn áo cột sát vào người. Các cô lựa bẻ nhựng chồi trà non bỏ vào trong mình, cho đến chiều về, trà đầy trong áo, dưới ánh nắng mặt trời nung nấu và làm việc nặng nhọc, mồ hôi nhể nhại thắm ước áo và trà, các cô dùng luôn chiếc áo nầy cuốn lại để ủ trà nên gọi là trà thanh nử.
Trà Thiết Quan Âm: Thiết Quan Âm là danh hiệu mà các đệ tử tôn xưng ngài Bồ Ðề Ðạt Ma. Vị sáng tổ thứ nhất của Phật-Giáo Bắc Tông. Vì ngài là người Ấn Ðộ, da đen và đắc đạo nên gọi Ngài là thiết Quan Âm. Tương truyền khi ngài ngồi tham thiền tại núi Thiếu Thất, thường bị buồn ngủ, ngài cho là do tại mí mắt sụp xuống nên ngài lấy dao cắt bỏ mí mắt rồi liệng vào trong bụi rậm. Ít lâu sau nơi bụi rậm đó, đêm đêm có hào quang chiếu sáng ,các đệ tử đến tìm thấy một bụi trà mới mộc lên cành lá tươi tốt, bẻ lá đem nấu nước uống thử thấy có mùi thơm ngát, vị ngọt tinh thần phấn khởi. Từ đó mọi người lấy lá trà ấy nấu nước cúng Phật gọi là Trà Thiết Quan Âm.
Các loại trà Việt-Nam:
Người Việt Nam thích dùng trà xanh hay trà mộc nguyên chất, sao chế bằng phương pháp thủ công, sấy trà bằng nhiệt trên chảo gang với một ngọn đèn cháy liên tục. nên gọi là trà “sao suốt”.
“Chè ngon đâu cứ ướp hoa,
Ướp hoa còn nhận đâu là trà ngon”
Còn “trà móc câu” thì dùng đọt trà non để pha chế, sau khi sao xong lá trà cuốn lại như hình móc câu . Song người sanh điệu bảo phải gọi là trà “mốc cau” mới đúng vì lá trà tròn cánh, có mốc trắng giống như mốc ở cây cau .Phần đông người ta ưa thích loại trà pha ướp với các loại hoa Sen, Ngâu, Sói, Lài,Cúc , Lan. Moi”loại hoa sẽ làm cho trà có một hương vị đặc biệt.
Ngoài ra còn có “trà mật vịt” là trà xanh pha thật đặc như mật con vịt, trà “hạt” là nụ trà phơi khô, trà” bồm” hay trà “bánh” dùng toàn lá trà già hay đốn trà để chờ muà xuân tới trà ra chồi non. hai loại trà nầy không ngon.không hương, không vị.
Loại trà ngon nhất là trà Thái Nguyên và trà tuyết ở Hà-Giang, Suối Giàng (Yên Bái) do đặc điểm thời tiết và điạ thế cây trà trồng ở vùng nầy có vị ngọt, ít chát và có nhiều chất caffeine. Ở trong Nam vùng cao nguyên Trung Phần cũng có loại trà Blao (Bảo-Lộc) rất nổi tiếng.
Ngày nay, do sự tiện dụng và nhất là người thành thị thích dùng các loại trà tàu như trà Ô Long, trà Cao Sơn, trà Hoàng Ðế, trà Mạn Hảo, trà ướp hoa Sen, Sói. được phân chia ra nhiều hạng và được đánh số 103, 204, 404 v.v.
” Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà Mạn Hảo,ngâm nôm Thuý Kiều”
Trà là loại dược thảo: Trà không chỉ dùng làm thức uống thơm ngon sảng khoái,mà trà còn là một loại dược thảo rất tốt. Uống trà ngăn ngừa được nhiều chứng bịnh nan y như bệnh ung thư chẳng hạn. Trong dân gian còn truyền tụng rất nhiều phương thuốc chửa bệnh bằng trà..
Tác dụng của trà đối với cơ thể con người là làm tăng cường lưu thông hệ thống tuần hoàn máu huyết, kích thích thần kinh hệ giúp cho cơ thể cảm thấy sảng khoái tỉnh táo, lợi ích cho đường tiểu và dể tiêu-hoá, tăng cường chức năng của thận, giảm bớt các đột biến trong các tế bào dẩn đến các chứng ung thư, ngăn ngừa các chứng sâu răng. Nên dân gian thường truyền tụng ca dao rằng:
” Mai sớm một tuần trà
Canh khuya đôi chén rượu
Ngày ngày đều như thế
Thầy thuốc chẳng tới nhà”
III Nguồn Gốc Cây Trà:
Cây Trà xuất hiện từ lúc nào trên quà điạ cầu nầy chưa ai xác định được , theo như các bảng thống kê việc sản xuất trà trên thế giới và kho dử liệu về trà cuả Trung Hoa đã làm cho người ta lầm tưởng rằng quê hương cuả cây trà là Trung Quốc hay Ấn-Ðộ.. Nhưng theo các tài liệu xưa cổ và kết quả nghiên cứu gần đây cuả những nhà khoa học và hiệp hội trà thì trà không xuất xứ từ Trung Hoa hay Ấn Ðộ ( người ta không tìm thấy cây trà thiên nhiên hay cây trà hoang mọc ở các vùng châu thổ sông Hoàng Hà hay sông Hằng Hà).Quê hương thật sự của cây trà ở tận mãi phương Nam. Mặc dù người Trung Hoa đã biết đến cây trà từ thời nhà Châu (1134 -770 BC) nhưng mải đến đời nhà Tuỳ (581 – 618 AC) trà mới được du nhập vào Trung Quốc từ hai nước Nam Chiếu và Nam-Việt. Ðến đất Tàu trà được châm sóc kỷ lưởng và tinh vi, sau khoảng thời gian dài, trà được đưa lên hàng nghệ thuật. Hiện nay trên thế giới có trên 40 dân tộc có thới quen dùng trà làm thức uống. Người Nhật biết uống trà vào khoảng năm 600 sau Tây lịch . Năm 1610 những thuyền buôn người Ðức nhập cảng trà lần đầu tiên vào Âu châu từ hai nước Tàu và Nhật. Năm 1650, các thuyền buôn người Ðức lai”nhập cảng trà vào lảnh điạ Mỷ Châu.
Năm 1657 lần đầu tiên trà được bán tại các quán cà-phê ( coffee houses) ở Anh Quốc và nó mau chóng trở nên loại thức uống thông dụng trên vương quốc nầy. Trà đá và trà gói ( teabag) bắt đầu được khai thác tại nước Mỷ trong Hội chợ St. Louis world fair năm 1904 bởi một thương gia người Anh tên là Richard Blachynden và Instant tea mới được phổ biến trên thương trường nước Mỷ lần đầu tiên vào năm 1948..
Theo The World Book Encyclopedia thì Ấn Ðộ là nước sản xuất trà hằng năm nhiều nhất khoảng 700 ngàn tấn, kế đến là Trung Hoa 500 ngàn tấn đứng hàng thứ nhì , Sri Lanka 214 ngàn tấn, Nga 160 ngàn tấn. tổng cộng số trà sản xuất hằng năm lên đến 2 triệu 300 ngàn tấn. Anh Quốc là nước nhập cảng trà nhiều nhất trên thế giới khoảng 180 ngàn tấn mỗi năm.
Theo Tổng công ty trà Vinatea (Trà Việt Nam) từ năm 2000, toàn cỏi Việt Nam có 124 đầu mối xuất khẩu trà và 43 quốc gia bạn hàng. Và Việt Nam trở thành một trong 10 quốc gia sản xuất trà nhiều nhất trên thế giới với sản lượng 327 ngàn tấn /1 năm trà khô.
Năm 1753, nhà thực vật học Thuỵ-Ðiển tên là Carl Von Liaeus đặt tên khoa-học cho cây trà là Theaceae, loại Camellia sinensis và xác định cây trà có nguồn gốc ở Trung Quốc.
Nhưng một số các nhà học giả người Anh thì cho rằng nguồn gốc cây trà xuất phát từ Ấn-Ðộ, và cuộc tranh luân kéo dài trên hai thế kỷ.
Năm 1976, Djemukhatze một nhà nghiên cứu thuộc viện Hàn-Lâm khoa-học Nga-Xô , đã đến nghiên cứu vùng trà cổ thụ tại Việt Nam trong 2 năm liền bằng phương pháp sinh hoá thực vật, Ông đã tìm ra những vết tích cây trà và lá trà hoá thạch từ thời kỳ đồ đá ở vùng đất tổ Hùng Vương Phú-Thọ. Tại vùng Suối Giàng, Nghỉa Lộ Yên-Bái trên độ cao khoảng 1000 thước trên mặt biển, có một vùng trà hoang dại khoảng 40,000 cây, có 3 cây trà cổ thụ sống hằng ngàn năm, cây lớn nhất chiều cao khoảng 9 thước, vòng ngang độ 3 người ôm không xuể. Ở vùng Cao Bắc Lạng có những cây trà hoang cổ thụ cao tới18 thước. Do đó ông xác định rằng Việt-Nam chính là quê-hương cuả cây trà trên thế giới.
IV Cách Trồng Trà:
Cây trà thích hợp khí hậu nhiệt đới và tiếp nhiệt đới. Lá trà xanh um quanh năm, đâm chồi nhanh chóng ở muà Xuân khi thời tiết ấm áp, tốt nhất ở các vùng cao nguyên khoảng từ 900 đến 2100 thước, vùng cao hơn nửa khí hậu lạnh lẻo cây trà không chịu được. Cây trà có bông nhỏ màu trắng mùi thơm ngào ngạt, mỗi bông trà thường có 3 hột .
Về các loại hoa trà trân quí, nhà văn hào Kim Dung diển tả như sau:
Ðệ nhất thiên hạ trà kêu bằng “thập bát học sỉ”, cả khóm trà có 18 bông, màu sắc khác biệt, không bông nào giống bông nào, bông nào cũng đẹp và trổ cùng một lúc, tàn tạ cùng giờ.
Sau hạng thập bác học sỉ là “lạc đệ tú-tài”. Loại nầy có 17 bông, các màu sắc lại bác tạp, không thuần nhất, to nhỏ không đều, nở sớm muộn không cùng lúc, giống như anh học trò học hành lôi thôi, bài vở hơn kém thất thường, thi rớt là cái chắc.
Kế đó là “bát tiên quá hải” một gốc sinh ra tám bông hoa khác nhau, “thất tiên tử” có bảy bông, “phong trần tam hiệp” hai bông trắng tượng trưng cho Lý-Tỉnh, Cầu Nhiêm Khánh, và bông màu tím tượng trưng cho Hồng Phất Nử.
Loại hoa trà màu trắng, lớn trên cánh hoa có vân đen gọi là “mản nguyệt”, những vân đen tượng trưng cho các cành quế trên cung trăng.
Loại hoa trà màu trắng nhưng cánh hoa có vân hồng gọi là ” hồng trang tố lý”. Hoa màu trắng mà có chỉ đỏ thì gọi là “trảo phá mỷ nhân kiểm” má đào của người thiếu nử bị quào (có thể bị đánh ghen chăng). Ông chỉ diển tả vậy thôi chứ không chỉ rỏ xuất xứ ở nơi nào.
Theo những nông gia Việt Nam xưa,trồng trà không nên trồng ở giải đất nắng chang chang. Chọn khoảng đồi dốc thoai thoải để dể thoát nước, xới đất thành từng rảnh sâu độ 4 đến 5 tấc cho xốp, rộng khoảng 7 tấc để cho rể trà ăn sâu , bón phân khi gieo hạt vào khoảng tháng 9, hạt gieo thành từng hàng, mỗi hàng cách nhau 2 thước, mỗi cây cách nhau 8 tấc. Ngày tưới nước một lần vào buổi chiều, thấy cây trà mọc lên là tốt, cành lá nó sẽ xum xuê.
Cây trà rừng có thể cao trên 9 thước ( khoảng 30 feet) nhưng nhà vườn thường cắt xén để giữ độ cao cây trà vào khoảng 9 tấc đến 1.2 thước mà thôi. Cây trà lớn khoảng từ 3 đến 5 năm thì có thể bẻ đọt được, và mỗi cây trà có thể khai thác đến tuổi 16 thì cắt bằng mặt đất trồng lại.
V Cách ướp trà:
Muốn có trà ngon người ta phải pha ướp từ những loại trà khô như là trà mộc (black tea) trà xanh (green tea) hay trà Ô long có màu nâu sẩm.. Ướp trà là một kỳ công phối hợp tinh vi giửa phong cách tao nhã, sành điệu. va “ỷ thuật vi tế. Ướp trà thường dùng các loại hoa sen, hoa cúc, hoa ngâu, hoa lài, hoa sói. Mổi loại hoa làm cho trà có một hương vị khác nhau. Ðôi khi người ta ướp với cam thảo hay sâm.để khi uống trà cảm thấy vị ngọt ngào ở cổ họng và tinh thần phấn chấn.
Trong các loại hoa ướp trà hoa sen là quí nhất. Sen để ướp trà phải dùng loại sen bách hoa,phiá bên trong các cánh hoa lớn có hằng trăm cánh nhỏ ôm sát vào nhau, che úp nhụy hoa, gạo sen và gương sen.
Mua sen bách hoa về,(hoa sen phải hái trước lúc bình minh, phải lựa những ngày nắng ráo, tránh sau ngày mưa ) lải từng lớp cánh sen, kế đến tẻ những hạt trắng đầu nhụy hoa (gạo sen), trộn chung với trà, ủ trong vò kín từ một đến hai ngày cho hạt gạo sen quắn lại roi”mới đưa trà lên sấy khô bằng than hay bằng nước nóng cách thuỷ. Phải giử cho nhiệt độ vừa phải và điều hoà để không mất mùi hoa. Ứơp một kí-lô trà phải dùng tới hằng trăm bông sen, và phải làm nhiều lần như thế mới dùng được. Kỳ công như thế nên trà mới thơm ngon, kích thích thần kinh, chóng suy nhược cơ thể. Uống một tách trà vào thấy tinh thần nó tỉnh táo, thoải mái làm sao ấy.
Nhà văn Nguyển Tuân ướp trà bằng cách bỏ trà mạn vào trong búp sen chớm nờ rồi cột lại. Ướp như thế rất cầu kỳ, không để trà được lâu vì bị mốc và không làm được số lượng lớn.
VI Văn hoá trà:
Trong các tài liệu xưa cổ nói về cây trà xứ ta như sau:
Sách Vân Ðài loại ngử của Lê Quý Ðôn ghi ở mục IX về phẩm vật .” Trà là một loại cây quý ở phương Nam, cây như Qua-lô, lá như chi tử (dành-dành) hoa như tường vi trắng ( loại hoa hồng nhỏ) quả như Tinh Biền Lư, nhị như đinh hương, vị rất hàn.”
Sách Quảng bác vật chí nói: Cao Lư là tên một loại trà lá to, mà nhị nhỏ, người Nam dùng nó để nấu nước uống.
Trà-Kinh cuả Lục Vũ đời nhà Ðường nói :”” Qua lô ở phương Nam cũng tựa như trà mà nhị đắng. Người ta lấy nấu nước uống thì suốt đêm không ngủ được.Các xứ Giao Châu và Quảng Châu rất quí trà ấy, mỗi khi có khách đến chơi thì pha mời. Ðào hoàng Cảnh nói Thiền Khê xử sỉ cũng khen trà ấy là ngon.””
Lý Thời Trân nói: ” Cao lô không phải là trà, cho một phiến to vào ấm pha thì vị rất đắng, mà pha một ít thì ngọt, ngậm mà nuốt thì thấy nhuận ở cổ.”
Nghiêm Bắc tạp chí dẩn lời Lý Trọng Tân nói: “”Trà ở Giao Chỉ như rêu xanh, vị cay nóng, tên là trà đắng””. Nay thấy mấy ngọn núi ở Am Thiền, Am Giới, và Am Các ở huyện Ngọc-Sơn Thanh Hoá đều sản xuất loại trà ấy, mọc xanh om đầy rừng. Thổ dân hái lá trà đem về giả nát phơi trong râm, khi khô đem nấu nước uống , tính hơi hàn, uống vào mát tim phổi, giải khát ngủ ngon. Hoa và nhị trà càng tốt có hương thơm tự nhiên.
Phạm Ðình Hổ (1768-1839 ) trong Vũ Trung tuỳ bút viết về cách uống trà thời bấy giờ như sau :”” Ta sinh trưởng đương lúc thịnh thời Cảnh Hưng, trong nước vô sự, các nhà quý-tộc, các bậc công hầu, các con em nhà quý phái đều đua chuộng xa-xỉ có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lạng bạc. Kẻ thì ưa thanh cao, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên, mua cho được trà ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí cĩ kẻ đặt tiền mua sẵn cho được hiệu ch”Chính Sơn, gửi t” buơn đặt cho kiểu ấm ch” mới lạ… Buổi sớm giĩ m”, buổi chiều trăng trong, với bạn l”g thơ c”g l” chủ kh”h, m”ung dung pha ấm tr”thưởng thức thì tỉnh được mộng trần, rửa được lịng tục… Lị, si”, ấm, ch” lại chế ra nhiều kiểu thích dụng… hỏa lị từ Tơ Ch”, than t” đem sang b” ta b””.
Do các tài liệu trên ta thấy ở vùng Thanh Hoá, dọc theo vùng rừng núi phiá Bắc Trung Phần Việt Nam trà mọc thành rừng và thị trường tiêu thụ mua bán trà ở nước ta ngày xưa cũng rất phồn thịnh.nhưng không thấy tài liệu nào nói về khu rừng trà cổ thụ ở Yên Bái. Hay các loại trà của các dân tộc Dao, Tầy sản xuất, tuy rằng trong dân gian vẩn có truyền tụng qua ca dao tục ngữ:
“Chồng em thường ngược sông Ngâu,
Mua trà Mạn Hảo tháng sau thì về.”
VII Trà phong Việt Nam:
Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân giử một vài nghi thức nên gọi là trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt-Nam lối uống trà chỉ được coi như là nghệ thuật mà thôi, nghệ thuật thì không cần phải khuôn sáo hay công thức. Trung Hoa còn có Trà-Kinh, hàng ngàn trang sách và hàng vạn tài liệu nói về nghệ thuật uống trà đã được trưng bày thành viện bảo tàng trà. Việt Nam ta có cách uống trà thanh lịch gọi là Trà-phong hay phong cách uống trà.
Trà Phong Việt Nam không hề bị ảnh hưởng của Tàu hay Nhật như quan niệm cuả nhiều người. Nghệ thuật uống trà phản ảnh phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam.Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nử pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong yên lặng suy gẩm như để giao hoà với thiên nhiên, như để tiếp cận giửa con người với môi trường, như để nhận xét, để thảo hoạch những dự án phúc lợi cho đại chúng. khi đã trở thành thói quen rồi thì khó mà quên được.Trà đồng nghiả với sự tỉnh thức, sáng suốt, mưu cầu điều thiện xa điều ác.
Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các chuà chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục. xoá tan cảm giác tỉnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chuà Từ-Liêm ngoài Bắc là giử được nghi thức Thiền Trà nầy.
Sau đó, trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng của sự quyền quý.để phân biệt với giai cấp thứ dân trong xả hội phong kiến.
Kế đến trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các chú học trò “”dài lưng tốn vải ăn no lại nằm””, mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh.
Do đó, dần dà uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn nhiều công phu hàm dưởng và trở thành một nghi thức.Trà-phong Việt-Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời nhiều ngụ ý. Dù mưa nắng, sớm chiều, buồn vui khách không thể từ chối một chung trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời.
Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhả và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt-Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà củ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà nguội. Tách trà tiếp khách là thể hiện những tình cảm tối thiểu nhất, không thể tuỳ tiện coi thường, dù không nhất thiết phải là loại trà thượng hảo hạng.
Uống trà cũng phải uống từ ngụm nhỏ,để cảm nhận hết cái dư vị thơm ngon cuả trà, cái hơi ấm cuả chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông tháng giá làm ấm lòng viển-khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại.
Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hiệp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tich mịch của núi rừng mà luận bàn thế sự thì không còn gì thú vị hơn nửa. Chỉ có những tao nhân mặc khách mới thưởng thức được trọn vẹn cái phong vị cuả cách uống trà nầỳ, chứ không phải như kẻ phàm phu tục tử bưng ly trà to tổ bố lên uống ừng-ực, người ta gọi là “”ngưu-ẩm”” hay là uống như trâu uống nước.
1. Trà Nô :
Ngồi uống trà một mình thì gọi là độc ẩm. Ðêm hôm thanh vắng, ngồi ngắm hoa nở là thanh tịnh nhản căn. lắng nghe những tiếng nước róc rách nơi hòn non bộ là thanh tịnh nhỉ căn. nhấm nháp từng ngụm trà , cảm nhận cái ngọt ngào, thơm tho của trà là thanh tịnh thiệt căn và tỉ căn, khi pha trà hay nâng chén với ý thức tỉnh giác cao độ là thanh tịnh xúc căn . Khi thân tâm trở nên thanh tịnh con người cảm thấy thoát khỏi mọi ràng buột của cuộc đời, âu đó cũng là tuyệt đỉnh cuả nghệ thuật uố”g trà vậy.
Hai người cùng ngồi uống trà thì gọi là đối ẩm , ba người trở lên thì gọi là quần ẩm. Thông thường uống trà tới ba người là đông lắm rồi. Khi uống tra ” người đối ẩm cần phải tương đắc. Hai kẻ đối thủ thì không thể ngồi chung bàn trà được. Người uống trà sành điệu tự xưng là trà-nô. Những trà nô nổi tiếng là Thạch Lam thích loại trà xanh, Cao Bá Quát chê trà ướp hương, Một vị trà nô nổi tiếng khác là nhà văn Nguyển Tuân, ông pha trà bằng cách hứng nước sương đọng trên lá sen mỗi buổi sáng sớm, nói rằng :” chỉ có người tao nhả, cùng một thanh khí mới có thể ngồi chung bên một ấm trà. Người bạn tri kỷ cùng ta ngồi uống trà hẳn phải là bạn hiền, (chớ không phải bạn ghiền) chỉ cần đưa mắt là hiểu lòng nhau, có duyên phận lắm mới được cùng nhau hạnh ngộ bên chén trà quí là vậy”
2. Bộ đồ trà :
hay là trà cụ, xưa kia các cụ trà-nô uống trà rất cầu kỳ. Nấu nước pha trà
phải dùng loại ấm bằng đồng đặt trên lò lửa than đượm. Ấm pha trà ( hay bình trà) phải bằng loại đất sét màu chu sa ( màu gan gà), nhỏ xinh xắn vừa một tuần trà. Có ba loại ấm mà các cụ thích nhât là:
” Thứ nhất Thế-Ðức gan gà.
Thứ hai Lưu-Bội, thứ ba Mạnh-Thần”
Sau nầy, kỷ thuật tiến bộ qua các thời đại nên có nhiều loại đẹp hơn thanh nhả hơn như:
“Ấm đất Nghi-Hưng, chén sứ Cảnh-Ðức”
Cảnh Ðức là nơi sản xuất đồ gốm tuyệt đẹp trên thế giới hàng ngàn năm trước vào thời đại Nam Bắc Triều, (386-589) với năm loại men danh tiếng. Chén trà Cảnh-Ðức tráng bằng loại men màu xanh da trời sau cơn mưa (thiên thanh vũ hậu). Ấm đất Nghi-Hưng ở Tô-Châu nổi tiếng vì hai lẻ: Một là đất sét Tô-Châu đặc biệt lúc sống có màu thổ hoàng, khi nung chín ngả màu hồng cam không đâu có. Hai là ấm do các nghệ nhân nắn bằng tay, mỗi ấm là một tác phẩm nghệ thuật. Thân ấm lại được khắc nhiều bài thơ nổi tiếng, đôi khi được các đại bút gia đề tăng. Ấm được hai nhà Cung Xuân thời nhà Minh và nhà Trần Ðạo Chi thời nhà Thanh sản xuất, được các trà-nô trân quý như những tác phẩm điêu khắc tuyệt mỹ.
Ngoài ấm trà, bộ đồ trà thường có thêm một chén tướng (gọi trại dần ra là chén tống) để chuyên tràvà bốn chén nhỏ gọi là chén quân. Chén quân được ưa thích là loại chén hạt-mít (giống như hạt mít cắt đôi)
3. Pha trà :
Ðã có trà ngon hảo hạng, bộ đồ trà hạng nhất mà không biết cách pha trà thì cũng phí uổng
ấm trà. Muốn pha trà ngon phải cần một thời gian là 7 phút, nước phải tốt và lửa phải đúng.
Trà sư Lục Vủ, tác giả trà-kinh, gọi lửa là “trà sư” nước là “trà hửu” .Trà muốn pha thật ngon thì phải đúng lửa đúng nước. Như cậu học trò muốn nên người phải có thầy giỏi bạn tốt vậy.
Vua Tống Huy Tông ( 1100-1127 ) trong sách Ðại Quan Trà-luận phân loại nước dùng để pha trà như sau “Sơn thủy thượng, giang thuỷ trung, tỉnh thuỷ hạ” nghiả là nước pha trà tốt nhất là nước suối, kế đến là nước sông sau cùng là nước giếng. Nhưng ở Việt Nam thì thường dùng nước giếng hoặc nước mưa chỉ ngoại trừ cụ Nguyển Tuân thì tột đỉnh không ai bằng, ngài dùng nước sương đọng trên lá sen buổi sớm.
Ðun nước sôi cũng là một yếu tố quan trọng để có bình trà ngon, Ấm nước đặt trên lò than đượm. Nước vừa sôi bùng mắt cua là được. Nước sôi già quá sẽ làm cho trà nồng kém ngon. Trước khi pha trà,ấm chén phải sạch sẻ và trụng nước sôi (Nên nhớ một điều không bao giờ rửa bình trà bằng xà-phòng. Ðó là việc tối kỵ), rồi cho trà vào ấm, lượng trà nhiều ít tuỳ người uống. Thông thường các cụ dùng một cái muổng bằng gổ để lường trà gọi là “ngọc diệp hồi cung”. Sau đó rót nước vào ấm từ một độ cao, để cho trà khuấy lên và làm tan bụi bậm gọi là “cao sơn trường thuỷ”. Xong rồi chắt ngay nước ấy ra loại bỏ những cặn cáo. Tiếp theo hạ thấp ấm, châm nước vào bình trà đợt hai, hơi tràn ra một tí cho bọt bèo giạt ra hết gọi là “hạ sơn nhập thuỷ”. sau đó dội một đợt nước sôi già lên nắp bình và bộ chén nhằm giử nhiệt độ ấm trà luôn cao nhất. Giữ ấm trà trong vòng 2 phút để ra trà.Nươc”trà thứ hai nầy mới đúng tiêu chuẩn thơm tho tuyệt diệu của ấm trà.
Khi dùng , rót nước trà ra chén cũng phải theo quy tắc. Ðể các chén gần sát nhau, lượt đầu rót nửa chén,sau dó rót ngược lại để cho chén trà đều nhau không chén nào đậm không chén nào lạt. Vì “Rượu trên be, chè dưới ấm”. Thông thường chuyên trà ra chén tống trước rồi sau đó mới chia đều ra chén quân. Ngày nay cách nầy ít dùng vì mất thì giờ và làm cho trà mau nguội.
Khi rót trà ra chén không nên đưa ấm lên cao quá, tiếng nước trà chảy ton ton làm nước văng tung toé , mau nguội và thiếu lịch sự.
4. Nghệ thuật uống trà :
Trên khay , những chén trà màu vàng như mật ong, trong như hổ phách, sóng sánh tỏa ngát
hương thơm, làm cho ngọt cái miệng, ngon con mắt. Một khoảng không gian thanh tịnh, mấy bụi hoa cúc vàng hé nhụy, thoang thoảng thanh hương, trăng thanh gió mát, thêm có bạn hiền, với ấm trà pha thật khéo như thế nầy thì chúng ta cũng không thua gì những “tay sành điệu” cuả nghệ thuật uống trà roi”vậy.
Uống trà không những bằng miệng, bằng mủi, bằng mắt, bằng tai, bằng lưởi mà còn uống bằng cả tâm hồn nửa.Tay trái nâng chén trà, ngón giửa đở lấy đáy chén , ngón trỏ và ngón giửa giữ lấy miệng chén gọi là “tam long giá ngọc”, đưa cao chén trà ngang mủi, “du sơn lâm thuỷ” tay phải che ngoài tay trái để giử làn hơi bay vào mủi, khỏi phải hít hà thô lậu, vừa che được miệng khi uống. Thật là tận hưởng hương vị của chén trà. Ngụm nước đầu tiên chậm rải nuốt khẻ cho hương trà thoát ra đằng mủi và đồng thời còn đọng lại hơi chan chát ở lưởi, ngòn ngọt ở cổ họng rồi thấm thiá tận tâm can. Nuốt nước bọt tiếp lần một, lần hai, rồi lần ba sẽ cảm nhận
5. Hội trà :
Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia-đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương.Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ, hay trong nhà có giổ chạp.
Thưởng trà đầu xuân là thói quen cuả các cụ phong lưu, khá giả. Trước tết các cụ tự đi chọn mua các cành mai, đào, thuỷ-tiên hay các chậu hoa lan hoa cúc ở tận các nhà vườn, và chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết nhất là một lọ trà hảo hạng. Sáng mồng một, cụ pha một bình trà và ngồi chổ thích hợp nhất, thường là giửa nhà. Cụ ngồi tỉnh tâm, ngắm nhìn những đoá hoa nở rộ, thưởng trà. Khoảng 8 giờ sáng, cả đại gia đình sum hợp quanh bàn trà chúc thọ cụ và nghe những lơi dặn dò của Cụ. Trẻ con thì chờ lì-xì.
Uống trà thưởng hoa quý như hoa Quỳnh, hoa Trà, cũng là cái thú của nhiều người. Khi nhà cụ nào có một chậu hoa trổ, cụ chuẩn bị và mời các bạn già sành điệu tới ngắm hoa, luận bàn thế sự, hay dặn dò con cháu.
Hội trà ngũ hương chỉ giới hạn có năm người thôi. Trên khay trà có năm lổ trủng sâu, dưới các lổ trủng đó để năm loại hoa đang độ ngát hương : Sen, Ngâu, Lài, Sói, Cúc. Úp chén trà che kín các hoa lại rồi mang khay để trên nồi nước sôi cho hương hoa bắt đầu xông lên bám vào lòng chén.. Pha bình trà cho thật ngon rót đều vào từng chén, mỗi người tham dự sau khi uống trà phải đoán hương trà mình đã uống và nhận xét. Sau mỗi tuần trà lại hoán vị các chén trà để mọi người đều thưởng thức được hết tinh tuý của năm loại hoa.
Ngày nay số trà nô càng ngày càng thưa dần theo vận tốc của nền văn minh cơ khí, con người phải chạy theo cái ăn, cái mặc để kiếm sống còn đâu thời giờ để cho các cụ thơ thẩn lảng-mạn bơi thuyền trong trăng để múc ánh trăng vàng.
Vĩnh Trường